Đền Diên Cờ: Dung hội nhiều hệ tư tưởng với tín ngưỡng bản địa (Kỳ II)
Phù sa văn hóa đượm dần, đượm dần bồi đắp nên đền Diên Cờ (xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc, Nghệ An). Chiêm bái đền, lữ khách không khỏi bần thần trước vẻ đẹp ban sơ vẫn còn vẹn nguyên ở chốn di tích.
Giá trị văn hóa vật thể dù bị “điêu
linh”, nhưng phi vật thể luôn bền bỉ với cộng đồng, dân tộc. Âm thầm
lòng hướng thiện của dân cư, dấu xưa nền cũ còn, thì đền còn. Với những
nét độc đáo và riêng biệt, đền luôn hòa trong dòng chảy lịch sử - văn
hóa chung của xứ Nghệ và dân tộc. Nơi trời - đất và con người hội tụ để
giữ mạch nguồn kết nối quá khứ - hiện tại và tương lai.
Thờ Tam tòa Thánh Mẫu và các vị thần trong đạo mẫu
Không chỉ thờ Cao Sơn, Cao Các, nơi đây còn thờ Đức Thánh Trần, Tam tòa Thánh Mẫu và các vị thần trong đạo Mẫu.
Theo
tài liệu về đền Diên Cờ và hồ Bạch Tượng của Sở Văn hóa và Thể thao
Nghệ An, đối với vương triều nhà Trần nói riêng và các triều đại phong
kiến Việt Nam nói chung, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là một vị tướng
thiên tài, một vị anh hùng dân tộc. Còn trong tâm thức của người dân,
ông đã trở thành một vị thánh.
Hưng
Đạo đại Vương Trần Quốc Tuấn không chỉ là một vị tướng tài trên chiến
trường. Nghệ thuật quân sự tài tình của ông đã được thể hiện trong cuốn
“binh thư yếu lược”, giúp hậu thế vận dụng để đánh giặc ở những thế kỷ
sau. Ngoài ra, ông còn là một nhà ngoại giao tài năng, giúp xóa bỏ mọi
hiềm khích, ân oán giữa các anh em trong Hoàng tộc, tạo nên sức mạnh để
cùng nhau đánh đuổi kẻ thù.
Mẫu Liễu Hạnh:
Theo sách “Thần nữ và Liệt nữ Việt Nam” của tác giả Mai Ngọc Chúc biên
soạn, Mẫu Liễu Hạnh đã được chép thành sách, đầy đủ và sớm hơn cả là tập
Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748).
Theo
đó, Mẫu Liễu Hạnh vốn là công chúa Quỳnh Hoa, con gái Ngọc Hoàng, do
phạm lỗi nên bị đày xuống trần gian. Nàng thác vào một gia đình nghèo ở
làng An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản (nay là xã Kim Thái, huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định), được cha mẹ đặt tên là Giáng Tiên.
Nàng lớn lên nhan sắc xinh đẹp, lại đủ tài văn thơ đàn nhạc. Đến tuổi lấy chồng, nàng được cha mẹ gả cho Đào Lang.
Năm lên 21 tuổi, vào ngày mùng 3 tháng 3, năm Đinh Sửu, niên hiệu Gia Thái triều vua Lê Thế Tông (theo sách: Tục thờ thần và thần tích Nghệ An, tác giả Ninh Viết Giao, trang 109) Giáng Tiên đột ngột qua đời. Thực ra, Giáng Tiên không chết mà đã hết hạn xuống hạ giới phải về trời.
Sau
đó, vì lưu luyến trần gian, công chúa đã xin với Ngọc Hoàng được xuống
trần gian thêm nhiều lần nữa với tên gọi Liễu Hạnh để giúp đỡ những
người dân khổ cực và trừng trị kẻ gian ác, Liễu Hạnh còn hiển linh giúp
nhà vua đánh giặc nên còn được gia tặng là Chế Thắng Hoà Diệu đại
vương.
Mẫu Thượng Ngàn:
Mẫu Thượng Ngàn còn gọi là Mẫu Đệ Nhị hay Lâm cung Thánh Mẫu. Bà là một
vị Thánh đã được dân gian xây dựng nên bằng truyền thuyết với lí lịch
rất cụ thể.
Theo truyền thuyết dân
gian, Mẫu Thượng Ngàn có công giúp vua đánh giặc. Đó là vào thế kỷ thứ
XV, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mới được nhen nhóm, lực lượng còn yếu,
Lê Lợi đem quân về đóng đồn ở sách Phản Ấn.
Chúa
Thượng Ngàn đã báo mộng là phải rút lui ngay vì ở đó địa hình rất bất
lợi. Lê Lợi đang dùng dằng chưa quyết định thì quả nhiên quân Minh đến.
Chúa Thượng Ngàn đã hoá phép thành một bó đuốc soi đường, dẫn vua tôi đến đất Mường Yên một cách an toàn.
Mẫu Thoải: Mẫu Thoải là vị thần trị vì vùng sông nước.
Mẫu cũng được mang một lý lịch trần gian, nhân hoá theo 2 truyền thuyết (Thần nữ và liệt nữ Việt Nam, Mai Ngọc Chúc, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2005, t.92-t.93).
Truyền
thuyết ở vùng Thái Bình và Nghệ Tĩnh: Thuở trời đất mới mở mang, vua
Kinh Dương Vương thường đi chu du khắp nơi. Một ngày, tới vùng kia, Vua
gặp được người con gái nhan sắc tuyệt trần và cưới làm vợ.
Bà
chính là mẹ của Lạc Long Quân sau này. Bà vốn là con gái của Long Vương
ở Động Đình Hồ nên được giao nhiệm vụ cai quản tất cả các sông, biển,
ao, hồ. Vì vậy bà được gọi là Mẫu Thoải.
Truyền
thuyết ở Tuyên Quang lại kể rằng: Kinh Xuyên là một hoàng tử con vua
đất, lấy vợ là con gái Long Vương ở Động Đình Hồ (Trung Quốc). Bà rất
yêu chồng, nhưng Kinh Xuyên lại lấy vợ hai là Thảo Mai, hay có tính ghen
ghét. Thảo Mai vu cáo bà nên bà bị chồng nhốt vào rừng sâu. Thú dữ
không làm hại mà còn mang hoa quả đến nuôi bà. Một hôm, có người Nho sĩ
đi ngang qua khu rừng và gặp bà, bà đã nhờ nho sĩ chuyển lá thư cho cha
là Lang Vương, nhờ thế mà bà được cứu thoát. Nhà vua gả bà cho vị Nho sĩ
ấy nhưng người này từ chối. Sau khi bà mất người đời tôn bà làm Mẫu
Thoải.
Theo truyền thuyết, Mẫu Thoải
cũng đã nhiều lần hiển linh giúp vua như “Đời Lê Vĩnh Thọ, có lần thuỷ
quái gây loạn, dâng cao nước sông Nhị, đã tràn vào Yên Phụ, sau phải cầu
đến các Mẫu Thoải mới khỏi được nạn lụt”.
Đời
vua Lê Thánh Tông, khi vua đi đánh giặc ở Phương Nam và gặp nạn tại
vùng Phú Xuyên, Kim Bảng, nhà vua đã cầu khẩn thần linh, Mẫu Thoải đã cử
tướng đến dẹp yên gió để vua tôi đi qua một cách an toàn.
Cùng
với đó, đền còn thờ Ngũ vị quan lớn. Đây là các vị thần trong hệ thống
đạo Mẫu Việt Nam, gồm 5 vị: Quan Đệ Nhất, Quan Đệ Nhị, Quan Đệ Tam, Quan
Đệ Tứ, Quan Đệ Ngũ.
Ngoài ra, tại
đền còn thờ các ông Hoàng. Tam hoàng tử là ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Bảy
và ông Hoàng Mười, gốc tích là con trai của Long thần Bát hải Đại vương ở
hồ Động Đình. Tuy nhiên, theo truyền thuyết dân gian các ông thường
được hoá thân vào những nhân vật nhân gian là những danh tướng có công
dẹp loạn cứu nước, những người khai sáng, mở mang đất nước.
Cương Quốc Công Nguyễn Xí: Tộc
phả họ Nguyễn Đình (xã Khánh Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An) do Hội
đồng Gia tộc tái bản năm 1993 có chép: “Thái sư Cương Quốc Công Nguyễn
Xí sinh năm Đinh Sửu (1397) tại làng Thượng Xá (nay là xã Khánh Hợp,
huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An).
Lớn
lên ông theo Thái tổ Cao Hoàng đế khởi nghĩa Lam Sơn, cùng người anh tên
là Nguyễn Biện vượt núi băng sông, mũ rơm tên đá, lập nên công to đại
định”.
Dưới
cờ nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi làm chủ soái, danh tướng Nguyễn Xí (1397 -
1465) là một trong 40 công thần khai quốc. Ông từng 10 năm nếm mật nằm
gai, cùng anh trai là tướng Nguyễn Biện (1394 - 1423), đóng góp to lớn
vào công cuộc kháng chiến chống xâm lược Minh, giải phóng đất nước thoát
khỏi 20 năm dưới ách đô hộ bạo tàn của chúng.
Tư
tưởng “trung quân ái quốc”, trong 33 năm giai đoạn đầu của triều Hậu
Lê, ông là trụ cột nhiếp chính 4 đời vua Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông,
Thánh Tông.
Ông mất giờ Thân ngày 30
tháng 10 năm Ất Dậu (1465) tại Thăng Long, hưởng thọ 69 tuổi. Nghe tin
ông mất, vua Lê Thánh Tông buồn than: "Từ khi khai quốc đến nay chẳng ai
được như ngươi". Vua bỏ triều 3 ngày không ngự, ban nhiều tặng vật, cấp
mọi thứ nghi trang tế lễ, 100 quan tiền, và sai quan hữu ty lo liệu mọi
việc, nhà vua còn tặng ông danh hiệu Thái sư Cương Quốc Công đặc ân
khai quốc.
Từ xưa đến nay người làm
bề tôi mà lúc sống được phong, khi chết được tặng, văn ngợi ca vinh
quang không dứt, thật không ai sánh nổi với ông.
“...
Xét Nguyễn Xí khí độ trầm hùng, tính người cương đại, giúp Cao Hoàng
khi mở nước, trăm trận gian nan. Phò Tiên Khảo lúc thủ thành, hết lòng
giúp rập, ra vào hết chức phận tướng văn, tướng võ. Trước sau giữ trọn
tiết làm tôi làm con, giữ mình có đạo, hồn nhiên như ngọc chẳng khoe
tươi. Nghiêm mặt ở triều lẫm liệt như thanh gươm mới tuốt. Các quan đều
trưởng mộ phong thái, bốn biển đều ngưỡng vọng uy danh” - Vua Lê Thánh Tông nói về Tướng quốc Nguyễn Xí.
Ngoài ra, tại đền còn thờ Nguyễn Thức Vạn.
Nguyễn
Thức Vạn hiệu Sỹ Kiều (có tài liệu chép là Sỹ Triều), là ông tổ của
dòng họ Nguyễn Thức ở xã Nghi Trường, huyện Nghi Lộc. Ông sinh vào thời
Lê Trung Hưng, được cha mẹ cho theo nghiệp bút nghiên từ thủa nhỏ. Gia
phả họ Nguyễn Thức ở Nghi Trường chép: “Cụ Sỹ Kiều - Nguyễn Thức
Vạn, làm quan đến chức Tổng trưởng Văn (?). Bấy giờ tuổi đã cao nhưng
vẫn chưa có con trai nối dõi tông đường. Nghe theo thầy bói, Sỹ Kiều đã
dành nhiều công sức, tiền gạo làm nhiều việc thiện”.
Chính
ông là người đầu tiên khởi xướng việc trùng tu, tu sửa đền Diên Cờ khi
thấy đền bị xuống cấp. Những việc ông làm đã được báo đáp, ông bà sinh
được một người con trai là Nguyễn Thức Khâm. Sau này, ông Khâm cũng đậu
Hương cống và làm quan đến chức Tri phủ. Sau khi mất, ông bà được dân
làng rước long ngai, bài vị về phối thờ tại đền.