Chísĩ, liệt sĩ Nguyễn Đức Công, hayHoàng Trọng Mậu tự là Báu Thụ,quê xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh nghệ An.
Chí sĩ, liệt sĩ Nguyễn Đức Công, hay Hoàng Trọng Mậu tự là Báu Thụ, quê xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh nghệ An. Ông sinh ra trong một dòng họ có truyền thống hiếu học, giàu lòng yêu nước và cách mạng như Phó bảng Nguyễn Đức Đàm; Nguyễn Đức Tĩnh - Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên của tỉnh Thừa Thiên; Nguyễn Đức Thái - Thư ký Công hội Đỏ Nam kỳ; Nguyễn Đức Dương - Xứ ủy viên Xứ ủy Trung kỳ, Bí thư Tỉnh ủy Nghệ An, Thanh Hóa; Hoài Thanh (Nguyễn Đức Nguyên), giải thưởng Hồ Chí Minh, với tác phẩm Thi nhân Việt Nam, đã có tên đường ở Hà Nội,Vinh, Huế, thành phố Hồ Chí Minh... Thân phụ là Nguyễn Đức Tân, đậu cử nhân, làm quan chức Hành Tẩu, khi giặc Pháp đánh chiếm thành Nghệ An, đã bỏ quan về để hưởng ứng phong trào Cần vương và là người chiêu dân lập ấp khai mở văn hóa giáo dục, giúp đỡ mọi người, nên được dân làng lập đền thờ sống (sinh từ).
Chí sĩ Nguyễn Đức Công
Nguyễn Đức Công được xem là một con người đặc biệt thông minh, thông thạo cổ văn Trung Quốc và nói tiếng phổ thông như người Bắc Kinh. Tham gia phong trào Đông du.Năm 1902, ông sang Nhật học trường Đồng Văn Thư viện. Năm 1906, bị Nhật trục xuất, ông sang Trung Quốc hoạt động. Tốt nghiệp trường võ bị Bắc Kinh, ông đặc biệt quan tâm đến chiến lược cách mạng. Năm 1912, ông tham gia Việt Nam, giữ chức Bí thư và Quân vụ Ủy viên (ủy viên phụ trách quân sự). Cùng với Phan Bội Châu thảo "Việt Nam Quang phục quân phương lược" (chiến lược cách mạng trong tuyên ngôn của Hội). Ông cũng là người làm phần ghi chú và viết lời tựa cho cuốn Việt nam Quốc sử Khảo của Phan Bội Châu.
Tháng 3 năm 1915, trong thế chiến thứ nhất, ông cùng Đinh Hồng Việt chỉ huy quân đột nhập về Lạng Sơn tiến công chiếm đồn Tà Lùng của Pháp nhưng không thành. Theo hồ sơ sở mật thám Pháp thì ông được vua Duy Tân ký một sắc chỉ đề ngày 5 tháng 5 năm 1915 cử ông làm Tổng tư lệnh của Việt Nam quân chính phủ, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa của vua Duy Tân năm 1916. Ngày 28 tháng 5 năm 1915, ông bị bắt tại Hương Cảng rồi bị giam tại Hỏa Lò và sau cùng với Nguyễn Thức Đường bị xử bắn tại trường bắn Bạch Mai, Hà Nội.Tại nhà lao Hỏa Lò, ông cùng với chí sĩ Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) đồng hương, đồng chí, đồng Đông du… (cũng bị bắt từ Thái Lan về) đã nêu cao khí phách anh hùng sáng chói. Thực dân Pháp dụ dỗ nếu thu phục thì miễn tội, nhưng ông không chịu mà chịu xử bắn. Cả sách Việt Nam nghĩa liệt sử và Phan Bội Châu niên biểu đều nhận xét: “Đại trượng phu, thà chết không thà nhục là như ông”. Ông đã để lại những lời văn, lời thơ mà sau này nhiều người trong đó có học giả Đặng Thai Mai, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đều cho đó là những lời nói thuộc hàng cao cả nhất trong văn chương yêu nước của loài người. Có bài thơ Cảm tác làm trước ngày ra pháp trường cũng được nhiều người cho rằng đây là thuộc mấy bài thơ chữ Hán thất ngôn bát cú Đường luật hay nhất của Việt Nam, đã được dịch thơ như sau:
“Từ biệt quê nhà chẳng nhớ năm
Ngổn ngang tâm sự rối tơ tằm
Đoái trông Kiếm Nhị buồn tanh sắc
Mơ tưởng Lam Hồng lặng ngắt tăm
Chết quách đã đành không đất sạch
Sống về cũng chỉ một trời căm
Năm canh hồn mộng thành thân cuốc
Ngậm máu đi về khóc cõi Nam”.
Đặc biệt là ngày ra pháp trường, trước khi bị bắn, thực dân Pháp cho cố đạo đến rửa tội theo luật thông thường của chúng, thì ông đã nói: “Chúng tôi là người mất nước đi cứu nước. Có tội gì mà phải rửa. Mời ông đi chỗ khác” và đọc ngay câu đối tuyệt mệnh trước mũi súng quân thù:
“Ái quốc hà cô, duy hữu tinh thần lưu bất tử
Xuất sư vĩ tiệp, thả tương tâm sự thác lai sinh”
Câu đối này từng được treo ở nhà Bảo tàng cách mạng Việt Nam trong những năm chống Mỹ.
Người sau có văn tế thương tiếc ông, có câu:
Đá núi Tản muôn trùng chất ngất, hồn vĩ nhân muôn kiếp chưa tan;
Nước sông Hồng nghìn khoảng mênh mông, máu liệt sĩ nghìn thu khó gột.
Ngày 24/1/1916, giặc Pháp đã xử bắn ông cùng chí sĩ Nguyễn Thức Đường (Trần Hữu Lực) tại trường bắn Bạch Mai và chôn chung một huyệt. Năm 1927, con cháu đã dời hài cốt chung mộ của hai chí sĩ liệt sĩ về quê Cẩm Trường –xã Nghi Trung hiện nay, đặt tại nghĩa trang chi họ cụ Hành Tẩu Nguyễn Đức Tân.Ông đã hiến dâng cuộc đời cho Tổ quốc Việt Nam với tấm lòng trong như gương, sáng như vầng nhật nguyệt. Sách Việt Nam nghĩa liệt sử viết và in ở Trung Quốc, mệnh danh ông là Kỳ Nam tử (chàng trai kỳ lạ)
Chí sĩ, Liệt sĩ Nguyễn Đức Công được thờ chung trong Nhà thờ họ Nguyễn Đức thuộc địa bàn xóm 22 (làng Hoàng Xá), xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Nhà thờ được xây dựng vào năm 1865 để thờ thủy tổ và các bậc tiền nhân trong Dòng họ. Đặc biệt là lưu giữ nhiều tài liệu có giá trị phản ánh truyền thống lịch sử, văn hóa của Dòng họ và cuộc đời, sự nghiệp của các nhân vật, danh nhân nổi tiếng trong dòng họ, có tác dụng lớn trong việc giáo dục truyền thống cách mạng, yêu nước, hiếu học cho con cháu trong dòng họ và nhân dân, du khách thập phương. Với những giá trị văn hóa và lịch sử như trên, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành quyết định số 2924/QĐ-UBND ngày 09/7/2015 về việc công nhận di tích lịch sử cấp tỉnh cho di tích Nhà thờ họ Nguyễn Đức để ghi nhận, lưu giữ những giá trị văn hóa cũng như công lao của các bậc tiền nhân đã có công xây dựng đất nước./.
Nguyễn Đình Hùng
TP VHTT(tổng hợp)